Jun 4 2017

Ân Ðiển Diệu kỳ

Tôi muốn nhân cơ hội này để làm chứng Chúa đã kêu gọi tôi như thế nào và Ngài đã ban ân điển cho cuộc đời của tôi ra sao...

Đọc thêm...
Jun 2017

Khi Chúa đáp lời

Oneway.vn – Sinh ra trong gia đình đạo Phật nhiều đời, tôi có niềm tin rất lớn vào Phật giáo. Tôi thường đọc kinh mỗi tối

Đọc thêm...
Jun 2017

Sống Lại Từ Cõi Chết

Ngày 24/2 2014 Cầu Lai Châu lật xuống đã lấy đi tính mạng của 8 người cùng 29 người bị thương trong hai bản Chu Va 6 và Chu Va 8 quê nó.

Đọc thêm...
Jun 2017

Thượng Đế vẫn còn làm phép lạ

Một bài làm chứng thật hay, rất đáng nghe. Khi con người bất lực đó là lúc Đức Chúa Trời bày tỏ quyền năng của Ngài! Không có điều gì quá khó cho Ngài!

Đọc thêm...

210211 Làm chứng về Kinh nghiệm Chứng đạo

 Bài làm chứng về Kinh nghiệm của cá nhân trong việc chứng đạo của cô Phương Đài

Nhà Khoa học Vô thần tìm ra Chân lý

BM

Tôi sinh ra và lớn lên trong lòng miền Bắc Xã Hội Chủ Nghĩa vô thần. Suốt mười năm học trường phổ thông, tôi luôn luôn được dạy rằng vũ trụ này tự nhiên mà có, không có ông trời nào hết.

Để chứng tỏ quan điểm đó là đúng, người vô thần nêu câu hỏi: Nếu có Ông Trời vĩ đại đến mức sinh ra được cả vũ trụ thì Bố của Ông Trời là ai? Ông của Ông Trời là ai? Như thế, chuỗi logic hình thức này không bao giờ kết thúc. Ý thức vô thần cứ thấm vào tôi mỗi ngày càng sâu hơn.

Rồi tôi vào học ngành vật lý của Trường Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. Tôi phải học triết học duy vật một cách có hệ thống, trong đó sợi chỉ đỏ xuyên suốt là quan điểm vật chất có trước, vật chất đẻ ra ý thức, vật chật quyết định ý thức. Chỉ những gì con người cảm nhận được trực tiếp hoặc gián điếp, thông qua các phương tiện máy móc, thì mới tồn tại (hay hiện hữu). Như thế, chủ nghĩa duy vật đương nhiên chối bỏ sự hiện hữu của Đức Chúa Trời. Bấy giờ tôi cảm thấy chủ nghĩa duy vật là đúng. Ai tin Thượng Đế tôi đều cho là duy tâm, là mê tín dị đoan cả.

BM

Sau khi ra trường, tôi làm nghề dạy học. Tôi phải vừa dạy vật lý, vừa thông qua môn học này để giáo dục tư tưởng duy vật cho sinh viên. Vì thực tâm tin ở sự đúng đắn của chủ nghĩa duy vật, nên tôi giảng dạy rất say sưa, không thấy gì gò bó cả. Mười ba năm dạy học là mười ba năm góp phần tuyên truyền cho chủ nghĩa vô thần chống Chúa trong đội ngũ trí thức Việt Nam.

Bây giờ nghĩ lại, tôi thấy xót xa ân hận vô cùng. Nếu linh hồn của lớp đàn em tôi bị hư mất, thì chính tôi phải chịu một phần trách nhiệm. Tôi đã vô tình gây nên tội.

Năm 1975, sau một kỳ thi rất căng thẳng giữa các cán bộ giảng dạy đại học, tôi đã đỗ và được đi làm nghiên cứu sinh ở Hungary. Có chút bằng cấp nước ngoài rồi, tôi không dạy học nữa mà xin về làm ở Viện Vật lý thuộc Viện Khoa Học Việt Nam. Mặc dầu không phải là đảng viên nhưng do có chuyên môn tốt nên tôi được cử làm trưởng phòng của Phòng Nghiên cứu Vật lý hạt nhân và có 6 phó tiến sĩ dưới quyền. Chúng tôi đã từng ký kết và thực hiện hợp đồng với Cơ Quan Nguyên Tử Năng Quốc Tế (International Atomic Energy Agency), nghiên cứu về các hạt nơ-tron phát xã từ các phản ứng tổng hợp hạt nhân nhẹ dơ-tê-ri, đóng góp cho công trình xử dụng năng lượng nguyên tử vào mục đích hòa bình, đặt cơ sở cho những nhà máy điện nguyên tử sử dụng phản ứng tổng hợp hạt nhân, mạnh gấp hàng ngàn lần nhà máy điện nguyên tử ngày nay.

Tôi đã đi dự một số hội nghị khoa học quốc tế để báo cáo về các công trình nghiên cứu này.

Chỗ làm việc của tôi thật lý tưởng. Đại đa số cán bộ là con ông cháu cha, chỉ một vài người con thường dân như tôi được lọt lưới vào đây. Bây giờ, khi đã tin Chúa tôi thấy kế hoạch của Ngài đào tạo tôi thật quá kỳ diệu. Không có bàn tay chăm sóc của Ngài thì một thường dân như tôi sao có thể "vớ bở" như thế được. Cảm ơn Chúa thật nhiều!

Vì nhiều lý do, năm 1989, nhân một chuyến đi công tác nước ngoài, tôi đã xin tỵ nạn ở Đức.

Một hôm ở trại tỵ nạn Heilbronn, tôi gặp nhà truyền đạo người Hà Lan, Henk Wolthaus. Ông đến trại để phát sách Cơ-đốc cho mọi người. Sau khi nói chuyện với ông một lát, tôi xin ông một cuốn Kinh Thánh bằng tiếng Anh (vì ông không có Kinh thánh tiếng Việt), và một vài cuốn sách nhỏ khác. Tối hôm đó, tôi bắt đầu đọc thử các sách mới xin xem sao.

BM

Ngay từ dòng đầu của Kinh thánh, tôi đã thấy vô lý: "Ban đầu, Đức Chúa Trời dựng nên trời đất." Lương tri tôi bật lò xo. Đó là phản ứng tự nhiên của một người đã sống gần năm mươi năm với chủ nghĩa vô thần. Nhưng rồi tôi nhớ lại, chính Newton cũng cho rằng sở dĩ các thiên thể chuyển động nhịp nhàng được là nhờ "cái hích đầu tiên của Thượng Đế," mà ngày trước tôi đã từng phân tích cho sinh viên đây là quan điểm hoàn toàn sai lầm. Tự nhiên tôi nghĩ rằng Newton, người khám phá ra định luật hấp dẫn vũ trụ, được coi là phát minh vĩ đại nhất của lịch sử văn minh nhân loại, lại có thể kém như thế ư? Và tôi tự trả lời: không thể được, chắc là mình dốt, không hiểu được ông ta, có lẽ Thượng đế có thật.

Rồi tôi đọc tiếp câu chuyện Thượng đế sáng tạo vũ trụ trong sáu ngày. Tất cả như một truyện thần thoại dành cho trẻ con. Khi đọc đến Tân Ước, tôi lại càng thấy nhiều điều không thể chấp nhận được. Có thể tin chăng một bà mẹ đồng trinh sinh con, một người mù được sáng, người cùi được sách, người què được lành, người chết đã có mùi được sống lại chỉ nhờ những lời phán? Ai có thể đi bộ trên mặt nước, ra lệnh bắt bão tố vô tri phải dừng?

Những phép lạ đầy dẫy trong Kinh Thánh làm cho cái đầu quen suy nghĩ theo logic khoa học của tôi không sao hiểu nỗi. Đúng lúc ấy, trong đầu tôi nảy ra một câu hỏi mà bây giờ tôi biết là chính Chúa đã đến và gỡ mối cho tôi. Câu hỏi đó là: Sức mạnh nào khiến cho hàng tỷ người trên thế giới, trong đó có hầu hết các nhà khoa học vĩ đại mà tôi từng ngưỡng mộ, tin Kinh thánh? Họ cuồng tín, hay chính mình ngu dốt? Từ những cuốn sách mỏng xin của Henk, tôi đã đọc thấy những câu bất hủ sau đây:

BM

Charles Dickens viết: "Kinh thánh Tân Ước chính là cuốn sách tốt nhất đã từng hoặc sẽ được biết đến trên thế giới."

BM

Ngài Isaac Newton, nhà khoa học mà tôi đầy lòng khâm phục đã kết luận: "Trong Kinh thánh có nhiều biểu hiện chắc chắn về tính có thực hơn trong bất cứ một câu chuyện nào chống lại sách đó."

BM

Victor Hugo viết: "Nước Anh có hai cuốn sách, Kinh Thánh và Shakespeare. Nước Anh sinh ra Shakespeare, còn Kinh Thánh làm nên nước Anh."

BM

Albert Einstein, nhà vật lý học được coi là vĩ đại nhất của thế kỷ này, đã phát biểu: "Khoa học không có tôn giáo là mù lòa, tôn giáo thiếu khoa học là què quặt."

Lúc bấy giờ tôi chưa hiểu được nhiều, nhưng Chúa biết tôi là người học khoa học nên đã dùng tiếng nói của chính các nhà khoa học thật lớn để mở mắt cho tôi. Tôi lại nhớ đến một câu chuyện về Newton. Sau khi ông khám phá ra định luật hấp dẫn vũ trụ kỳ diệu, nhiều người đã hỏi ông làm cách nào ông lại có thể tìm ra định luật vĩ đại này, Newton vừa cười vừa trả lời:

"Đó là nhờ tôi đứng trên vai những người khổng lồ."

Chúa như đang nhắc nhở tôi: "Hãy đứng trên vai những người khổng lồ này thì con sẽ nhận ra Chân Lý của Ta." Quả nhiên tôi đã bị Ngài bắt phục dễ dàng. Cái tư tưởng vô thần, được nhồi sọ công phu trong bao nhiên năm nay bị đánh bật ra khỏi đầu tôi. Xưa nay tôi vẫn nghĩ đơn giản: không có Thượng Đế vì không ai chứng minh được sự hiện hữu của Ngài. Nhưng bây giờ tôi lại biết đặt câu hỏi mới: "Ai đã chứng minh được Thượng Đế không hiện hữu?" Tất cả chỉ dựa vào cảm giác của con người; mà cảm giác thì không phải là một cách chứng minh khoa học. Người đứng ở trái đất nói rằng mặt trăng quay quanh trái đất; nhưng quan sát viên đứng ở mặt trăng sẽ bảo trái đất quay quanh mặt trăng. Ai đúng? Hơn nữa, có nhiều cái hiện hữu mà không thể nhận biết được bằng cảm giác, chẳng hạn như trí khôn con người. Không có và không thể có một máy nào đo được trí khôn. Vì vậy, có Thượng Đế hay không có Thượng Đế là vấn đề của Đức Tin, nằm ngoài phạm vi của khoa học, của cảm giác.

Tính muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên, tính di truyền kỳ diệu: hạt giống nào sinh cây trái đó, vẻ đẹp tuyệt vời của những nàng hoa, sự hài hòa và hoàn thiện của cơ thể con người, sự hùng vĩ của bầu trời sao; tất cả những cái đó, cộng với những ý kiến các vĩ nhân mà tôi hằng kính phục, chính là sự chứng minh tuyệt vời và làm cho tôi tin rằng phải có Đấng Sáng Tạo. Đó chính là Thượng Đế toàn năng, toàn tri, toàn trí và toàn tại.

Dần dần tôi cũng tin Kinh thánh là Lời của Thượng Đế phán dạy cho loài người, vì dù đã được viết bởi hơn bốn mươi tác giả, ở những địa điểm khác nhau, trải ra 1500 năm, nhưng Kinh Thánh là một thể thống nhất. Từ đầu đến cuối đều nói về kế hoạch cứu rỗi của Thượng Đế đối với nhân loại.

Một trong những khái niệm khó nhất là khái niệm Đức Chúa Trời ba ngôi một thể. Cảm tạ Chúa đã đào tạo tôi thành một người nghiên cứu vật lý, nên điều này đối với tôi lại rất dễ chấp nhận khi so sánh với nước. Nước cũng có ba trạng thái là rắn. lỏng và hơi. Ba trạng thái vật chất ấy đều có cùng bản chất là nước. Có thể nói ba là một, một nhưng là ba. Điều thật khó hiểu đã trở thành quá rõ ràng, mặc dù đây chỉ là một sự so sánh rất khấp khiểng, một sự minh họa rất đại khái mà thôi.

BM

Khi đã có những niềm tin cơ bản ấy, thì mọi thắc mắc về các phép lạ đều được giải đáp dễ dàng. Đức Chúa Giê-xu chính là Đức Chúa Trời hiện thân làm người như chúng ta, nhưng đồng thời Ngài chính là Thượng Đế, là Đấng Sáng Tạo. Chính Chúa Giê-xu đã tạo dựng nên vũ trụ này, một phép lạ vĩ đại, thì những phép lạ khác trong Tân Ước, như đi bộ trên mặt nước, gọi người chết sống lại, đối với Ngài có gì là khó thực hiện.

Những lời dạy của Chúa Giê-xu đã gây cho tôi nhiều xúc động, vì thấy tình yêu thương của Ngài thật vô bờ bến. Ngài cũng phán: "Ta là Đường Đi, và Nguồn Sống. Nếu không nhờ Ta, không ai được đến với Cha." Ngài không tìm đường đi tới hạnh phúc vĩnh cửu cho chúng ta, mà chính Ngài là con đường dẫn chúng ta đến sự cứu rỗi linh hồn. Ngài không nói tới một chân lý nào khác, vì chính Ngài là chân lý tuyệt duy nhất. Và cũng chính Ngài là nguồn sống, vì tổ phụ A-đam của chúng ta đã nhờ sinh khí của Ngài mà trở thành một loài sinh linh.

Người Việt Nam cũng tin có Ông Trời. Ca dao Việt Nam có bài:

Lạy Trời mưa xuống,
Lấy nước tôi uống,
Lấy ruộng tôi cày,
Lấy đầy bát cơm,
Lấy rơm đun bếp.

Con người tưởng rằng có thể trực tiếp đến với Trời, đến với Cha Thiên Thượng. Chúa Giê-su cho biết: tội lỗi đã tạo ra một hố ngăn cách giữa nhân loại với Thượng Đế, và bây giờ chính Ngài là chiếc cầu duy nhất bắc qua hố thẳm ấy. Ai không tin nhận Ngài thì không thể đến cùng Thượng Đế được. Lời dạy bao trùm nhiều ý nghĩa sâu sắc đó đã cảm động lòng tôi rất nhiều.

BM

Được Đức Thánh Linh truyền cảm hứng, tôi đã phổ nhạc bài thánh ca: "Xin Cha Sống Mãi Trong Con." Tôi cũng lấy câu này để đọc trong ngày tôi được làm thánh lễ báp-tem. Cảm ơn Chúa thật nhiều!

Tiến sĩ Phan Như Ngọc, Stuttgart, Germany
Nguồn: baomai.blogspot.com

Từ Phật Giáo Trở Về Đạo Tin Lành

Từ Phật Giáo Trở Về Đạo Tin Lành ( Lời làm chứng của 2 nhà sư Tin nhận Chúa Jesus)

Ân Ðiển Diệu kỳ - Lời chứng về sự chữa lành của Chúa

      Tôi muốn nhân cơ hội này để làm chứng Chúa đã kêu gọi tôi như thế nào và Ngài đã ban ân điển cho cuộc đời của tôi ra sao.

     Tôi sinh ra, lớn lên khỏe mạnh, trong gia đình không có ai bệnh tim mạch. Lập gia đình năm 76. Năm 1979, tình cờ trong một lần thử nghe tim cho tôi, nhà tôi phát hiện ra tôi bị loạn nhịp tim. Thời gian đầu, chúng tôi không dùng thuốc mà chỉ cầu nguyện để xin Chúa chữa lành. Sau đó tôi lần lượt sanh hai con một gái, một trai bình thường khỏe mạnh.

     Vài năm sau đó, tôi bắt đầu cảm biết những cơn mệt. Nhà tôi đưa tôi vào bệnh viện Chợ Rẩy để làm điện tâm đồ (ECG) vì lúc đó chỉ các bệnh viện lớn mới có máy đo. Kết quả điện tâm đồ ghi nhận là tôi bị Ngoại Tâm Thu Trên Thất (Atrial extrasystole), bệnh không có gì nguy hiểm lắm. Dầu vậy vì cớ tôi bị mệt nên các Bác sĩ chuyên khoa tim mạch cũng đề nghị vài loại thuốc uống để làm mất những cơn loạn nhịp. Tuy nhiên tim tôi cũng không đáp ứng với các loại thuốc này.

     Bệnh tôi diễn biến ngày càng phức tạp hơn, nhịp tim đôi lúc rất nhanh, đôi lúc lại rất chậm. Tôi thường phải vào Viện Tim ở Sài gòn (một bệnh viện chuyên ngành tim mạch) để khám bệnh, Bác Sĩ phó giám đốc trực tiếp khám và làm các xét nghiệm, và chẩn đoán là Wolff-Parkinson-White syndrome. Ðiều trị ngoại trú và uống thuốc cũng không đáp ứng, lại còn có thêm những cơn Ngọai tâm thu thất (Ventricular Extrasystole) kèm theo.

     Sau đó tôi vào bệnh viện Thống Nhất để điều trị nội trú và theo dõi bệnh. Ðuợc Giáo Sư Bác Sĩ  đầu ngành tim mạch TP điều trị. Ỏ bệnh viện này có nhiều máy móc về hồi sức cấp cứu tim mạch cùng đủ mọi loại thuốc quí hiếm vào thời đó. Sau khi làm các xét nghiệm, tôi được định bệnh là “Suy Nút Xoang” (Sick sinus syndrome). Thường thì mỗi lần nằm bệnh viện như vậy kéo dài nhiều tuần lễ. Thế nhưng bệnh không thuyên giảm mà trái lai càng lúc càng nặng hơn, thường xuyên có những cơn rung nhĩ (Atrial fibrillation) và đôi lúc cuồng nhĩ (Flutter).

     Trường hợp của tôi được đưa ra hội chẩn khi có các giáo sư chuyên gia về Tim Mạch ở Pháp và Mỹ sang tham dự những hội nghị huấn luyện về tim mạch tại Sài gòn. Uống các thứ thuốc mà các Bác sĩ đó khuyên dùng cũng không đáp ứng. Cuối cùng họ đề nghị phải đốt nút nhĩ thất (catheter radiofrequency ablation) và gắn máy tạo nhịp (Pace maker). Một phương pháp điều trị mới vào thời điểm đó ở Pháp và ở Mỹ.

     Nhiều lúc tôi đã đứng trước ngưỡng cửa của sự chết. Trong sự tuyệt vọng, đôi lúc tôi đã trối lại với nhà tôi, bởi tôi nghĩ tôi có thể chết bất cứ lúc nào. Chúng tôi cứ tiếp tục cầu nguyện và Hội Thánh của chúng tôi cũng cầu nguyện rất nhiều để xin Chúa chữa lành cho tôi.

     Cho đến một ngày các Giáo sư đầu ngành tim mạch ở VN (khoảng năm 97) khuyên chúng tôi sang Mỹ chữa trị. Nếu được đưa qua Mỹ chữa trị thì chắc tôi có hi vọng sống sót thêm một thời gian nữa. Thế nhưng làm sao mà có được visa đi Mỹ chữa bệnh, vào những năm đó visa đi chữa bệnh còn rất hiếm hoi, và thủ tục cũng rất khó khăn. Dầu vậy, trong chương trình của Chúa, Ngài đã mở đường một cách lạ lùng. Với sự nhiệt tình quan tâm lo lắng, anh chị tôi – Ông Bà Ân Huệ Hirashiki - đã lấy đức tin tiến hành thủ tục. Một bác sĩ tim mạch của bệnh viện Hackensack-New Jersey sau khi xem xét hồ sơ bệnh án của tôi, cho biết là bệnh này là một loại loạn nhịp tim đe dọa tánh mạng (Life Threatening Arrhythmia). Ông nhận điều trị bệnh cho tôi, người nhà chịu hoàn toàn chi phí. Rốt cuộc tôi cũng có được visa đi Mỹ chữa bệnh, có nhà tôi cùng đi để chăm sóc.

         Chúng tôi lên đường ngay. Ðến Mỹ ngày hôm trước hôm sau tôi gặp bác sĩ. Sau đó tôi được đưa vào bệnh viện để tiến hành làm thủ thuật. Trước khi tiến hành thủ thuật, bác sĩ bảo tôi cần phải uống thuốc chống đông máu vì họ nhận thấy tôi bị rung nhĩ có nguy cơ tạo cục máu đông trong buồng nhĩ, và gây nên stroke rất nguy hiểm.

       Sau đó qua đề nghị của một vài tín hửu Hội Thánh NY, chúng tôi đến bệnh viện lớn tại New York là Bệnh viện Columbia Presbyterian. Tại đây sau khi tiến hành lại các xét nghiệm và làm các nghiệm pháp, Bác sĩ cho biết làm thủ thuật đốt nút nhĩ thất (Radio Frequency Ablation) là hủy hoàn toàn hệ thống tự động của tim, rồi gắn máy tạo nhịp, tim sẽ đập theo nhịp tạo ra bởi máy.  Bác sĩ tỏ ý lo ngại vì chúng tôi phải trở về Việt nam, nếu máy bị trở ngại, không hoạt động, tại Việt nam không có phương tiện cấp cứu, chỉ có một con đường là chết.

      Chúng tôi đứng trước tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tôi không muốn được điều trị theo cách đó. Vì vậy tình trạng thật tuyệt vọng. Trong hoàn cảnh đó, tôi cầu nguyện Chúa thật nhiều, và Chúa đã trả lời tôi qua câu Kinh Thánh II Cô- rinhtô 12: 9 “Ân điển ta đủ cho con rồi, vì sức mạnh  ta nên trọn vẹn trong sự yếu đuối của con”, và tôi đã thay đổi lời cầu xin Chúa, thay vì cầu xin Chúa “cất bệnh này khỏi con” thì tôi cầu xin: “Nếu Ngài muốn con mang bệnh này để làm sáng danh Chúa thì xin Chúa cho con có đủ sức để chịu đựng nó". Tạ ơn Chúa vô cùng, Ngài đã nhậm lời tôi. Chúng tôi trở về VN mà không nhận một phương pháp chữa trị nào.

       Lạ lùng thay, sau ngày trở về VN tôi không còn mệt nữa dù chỉ một lần. Dầu vậy tôi chưa dám bỏ thuốc uống (những thứ thuốc mà trước nay tôi vẫn thường dùng). Để đáp lại ân điển và phép lạ của Chúa tôi vâng theo tiếng gọi của Ngài và theo lời mời của Hột Thánh New-York, năm 2000 chúng tôi đến hầu việc Chúa với Hội Thánh.

     Một lần nữa, tôi cầu nguyện Chúa để dứt thuốc. Lại một lần nữa Chúa nhậm lời tôi. Cho đến nay đã 20 năm, tim tôi vẫn còn bị Ngoại Tâm Thu tuy không nhiều lắm, nhưng tôi luôn đuợc dồi dào sức khỏe. Từ bấy đến nay tôi chưa bao giờ phải nhờ đến bác sĩ và cũng không uống thuốc. Chúa đã làm một phép lạ lớn lao và đã làm thay đổi đời sống tôi.

     Ân điển Chúa thật diệu kỳ quá cho tôi. Tôi chỉ biết cuối đầu cảm ơn Chúa và tâm nguyện cuộc đời tôi luôn thuôc về Chúa và hầu việc Chúa suốt đời. Muốn thật hết lòng. (Viết tại New York năm 2007 - cập nhật năm 2017)
          Bà LÊ PHƯỚC THUẬN


Khi Chúa đáp lời

Khi Chúa đáp lời

Oneway.vn – Sinh ra trong gia đình đạo Phật nhiều đời, tôi có niềm tin rất lớn vào Phật giáo. Tôi thường đọc kinh mỗi tối và luôn cố giữ gìn Ngũ giới. Gia đình tôi rất thành kiến với người Tin Lành vì nghĩ rằng họ hay “dụ” người ta theo đạo, nên luôn tránh né họ…


Anh Nguyễn Huy Hoàng và con trước khi tin Chúa (Ảnh do nhân vật cung cấp)


Tôi là Phật Tử

Tôi cũng không tin vào Thiên đàng, Địa ngục, Đấng Tạo Hóa hay Chúa Cứu Thế. Với tôi, tất cả chỉ là sự thêu dệt của Thiên Chúa Giáo để hù dọa, làm người khác sợ hãi. Đối với tôi, Phật Giáo từ bi và phù hợp với cách suy nghĩ của mình. Tôi tin vào Thuyết Luân hồi, rằng người ta có thể tu thân tích đức để tự cứu lấy mình; và quan niệm nếu khi chết đi mà chưa đủ công đức để về cõi Niết Bàn, ít ra tôi cũng được “đầu thai” làm người ở kiếp khác. Tôi cũng tin vào Thuyết Tiến hóa của Darwin: loài người tiến hóa từ khỉ; vũ trụ này được tạo ra bởi Big Bang (một tiếng nổ lớn) và không có Đấng Tạo Hóa. Tôi vui thỏa trong niềm tin đó và luôn tự hào mình có một đời sống tốt hơn so với nhiều người khác…

Thoáng thấy Chúa, nhưng chưa “gặp” Ngài


Cứ thế, đến năm 2003 tôi lập gia đình với một người Tin Lành, nhưng tôi không tin Chúa mà còn bắt vợ phải cải đạo theo tôi. Sau hơn 3 năm, khi vợ tôi muốn đi nhà thờ trở lại “vì không thấy bình an” – cô ấy chia sẻ. Tôi nổi giận và suýt nữa ly dị. Sau đó, vì thương con nhỏ dại và cũng cảm nhận được vợ tôi thay đổi, vui vẻ hơn mỗi khi được đi nhà thờ nên tôi miễn cưỡng chấp nhận. Nhưng tôi nhất quyết bắt con phải theo đạo Phật.

Sau nhiều năm và nhiều lần hục hặc vì khác niềm tin, Chúa bỗng cho tôi cơ hội được gần gũi, trò chuyện với những người bạn Tin Lành của vợ. Nhiều người hơi “cuồng tín” nên tôi không thích, nhưng cũng có nhiều người rất chân tình, và tôi cảm nhận được tình yêu thương của họ dành cho vợ chồng tôi mỗi khi chúng tôi gây gổ, đòi bỏ nhau. Mãi tới năm 2012, tôi bắt đầu biết chở vợ đến nhà thờ mỗi Chúa Nhật, dầu chỉ ngồi bên ngoài chờ vợ nhóm xong.

Một vài lần tôi cũng đọc thử Kinh Thánh, thử nghe ngóng xem Mục sư giảng cái gì, nhưng thực sự vẫn không hứng thú lắm và Kinh Thánh theo tôi vừa khó hiểu, vừa hoang đường. Tôi cho rằng Kinh Thánh cũng dạy những điều hay lẽ phải như kinh Phật, và điểm khác biệt lớn nhất là người Tin Lành tin vào Đấng Tạo Hóa, vào Chúa Cứu Thế Jesus và Đức Thánh Linh. Nhưng thật tiếc tôi lại chẳng tin những điều này. Tôi còn nghi ngờ thông tin trong Kinh Thánh đã được con người sửa chữa, tổng hợp, viết lại…

Theo tôi, một người vô thần sẽ dễ cải đạo theo Tin Lành, nhưng với một người đã tuyệt đối sùng bái Phật giáo như tôi sẽ rất khó thay đổi. Tuy nhiên, với đầu óc khá cởi mở, tôi “thách thức” Kinh Thánh và Đức Chúa Trời rằng nếu Chúa có thật thì hãy nhận lời cầu nguyện của tôi một cách rõ ràng, bằng một phép lạ nào đó xảy ra, để tôi có bằng chứng trả lời với bất cứ ai hỏi tôi lý do cải đạo.



Gặp Chúa


Cuối năm 2014, bỗng dưng tôi cảm thấy khó chịu về tình trạng cứ lui tới nhà thờ mà không tin Chúa của mình, nên quyết định hoặc bỏ, hoặc phải tin Chúa. Rồi tôi nghĩ mình nên đọc kỹ Kinh Thánh một lượt trước khi quyết định. Tôi lập kế hoạch tập trung tìm hiểu lời Chúa trong năm 2015, mỗi ngày 30 phút đọc và cầu nguyện. Tôi nói: nếu Chúa có thật, hãy tỏ cho tôi biết thì tôi mới tin.

May thay tôi là người cứng cỏi, khó tin, nhưng cũng không phải kẻ lì lợm, bướng bỉnh một cách ngu ngốc. “Nếu nhận thấy rõ ràng Chúa có thật, tôi sẽ tin ngay” – tôi tự nhủ. Tôi muốn ngày này năm sau, tôi phải có câu trả lời rõ ràng từ Chúa. Tôi không chịu nổi tình trạng “hâm hẩm” của mình nữa. Rồi tôi đọc thấy trong Matthew/Ma-thi-ơ 7:7: “Hãy xin sẽ được; hãy tìm sẽ gặp; hãy gõ cửa sẽ mở cho”. Sau gần 4 tuần đọc liên tục mỗi ngày thì phép lạ xảy ra.

Sáng 28/1/2015, vào lúc 5 giờ, tôi thức giấc và nước mắt chảy ròng ròng. Chúa biết tôi làm trong ngành điện tử, nên Ngài đã cho tôi một khải tượng không thể gần gũi hơn: Tôi thấy mình trong hình hài một con robot, đang bước đi từ một vùng tối ra chỗ có ánh sáng. Bỗng dưng một bàn tay thò ra ấn vào đầu robot khiến nó bị… mất nguồn, tắt điện hoàn toàn. Rồi cũng bàn tay đó cài vào đầu robot một chương trình mới, xong nhẹ nhàng ấn nút. Robot hoạt động trở lại. Còn tôi thức thức dậy với một trạng thái mới, một tâm hồn mới.

Thật diệu kỳ. Chúa đã lấy ví dụ trực tiếp “bỏ vào đầu tôi”, dạy tôi rằng không có Chúa, tôi và tất cả loài người nói chung chỉ là những con robot. Cho dù có thông minh, giỏi giang đến đâu, vẫn không thể vượt qua khỏi Đấng tạo hóa, tất cả những gì robot “làm” được không nằm ngoài những gì người tạo ra nó đã soạn sẵn.

Tôi nhận ra rằng Chúa chính là Đấng Tạo Hóa, Ngài tạo ra loài người và “bỏ” thẳng suy nghĩ vào đầu họ. Tôi cũng hiểu được rằng loài người không thể tiến hóa từ loài khỉ. Còn bản thân tôi đã được Chúa ban cho quá nhiều ân điển, mặc dù mình chẳng ra gì trước mắt Chúa. Chỉ cần Chúa với tay “tắt điện”, con robot này sẽ vĩnh viễn vô dụng, thân thể này chỉ có thể rữa nát ngoài nghĩa trang.

Chúa quá thương tôi, nên Ngài đã “bỏ” vào đầu tôi một chương trình mới và “bật điện” cho tôi sống lại. Con người cũ của tôi đã chết ngày 28/1/2015, và Chúa đã tái sinh tôi bằng Đức Thánh Linh, cho tôi một cuộc sống mới.



Dâng mình cho Chúa


Vậy thì tôi còn sợ gì nữa mà không dâng hiến cuộc đời còn lại của mình cho Chúa, Đấng đã cứu chuộc tôi? Tôi đã tìm ra mục đích sống cho quãng đời còn lại của mình, và thấy cuộc sống thật ý nghĩa.

Tôi tiếp tục hỏi Chúa tại sao Kinh Thánh còn nhiều điều khó tin? Và rồi Chúa lại cho tôi thấy hình ảnh một cây thước bay lơ lửng giữa không trung; qua đó Chúa dạy tôi: mấy ngàn năm văn minh của loài người cũng chỉ bằng cây thước nhỏ này thôi, sao tôi có thể lấy cây thước – kiến thức hữu hạn – của mình để đi đo quyền năng vô hạn của Thượng Đế? Với mớ kiến thức nhỏ nhoi hạt bụi mà tôi học được trong hơn 40 năm làm người, đem so với cây thước kia thì nghĩa lý gì mà tôi đã dám dùng nó để thử thách Chúa và định giá Kinh Thánh?

Tôi chợt nhận ra mình quá kiêu ngạo, không phải là kiêu ngạo với loài người nhưng là kiêu ngạo với Thượng Đế. Tôi tưởng mình hiểu biết nhiều lắm, nào khoa học vũ trụ, nào Big Bang, nào con người chỉ là loài khỉ tiến hóa; không có, không biết, không chịu nhìn nhận Đấng Tạo Hóa. Rồi khi đối diện với Chúa, Đấng nắm giữ sự sống cái chết của chính mình, tôi mới biết con người mình thật nhỏ bé, ngu dại.

Thực tế còn rất nhiều điều con người chưa biết và không thể chứng minh được. Chúa nói Kinh Thánh là “Lời Hằng Sống”, nếu tôi có đọc mà không hiểu là bởi vì đầu óc tôi quá nhỏ bé, thiển cận. Tôi hiểu ra rằng thật phước hạnh khi được làm con cái Chúa vì Ngài là Đấng Quyền Năng, Đấng Yêu Thương, và Chúa thật quá yêu con cái của mình.

Giờ tôi mới hiểu tại sao anh chị em Tin Lành hay nói về Chúa, “dụ dỗ”, khuyến khích người ta tin Chúa. Tôi nghĩ họ “dụ” mình, nhưng giờ thì tôi biết họ làm vậy chẳng qua vì tình yêu, vì trách nhiệm, vì thương xót một linh hồn đang bị hư mất mà thôi. Đối với con cái Chúa, dù bạn có là ai, giàu có đến đâu chăng nữa mà không biết Chúa, không có Chúa thì linh hồn của bạn cũng chỉ là một linh hồn bị hư mất đáng được thương xót.

Thật cảm tạ Chúa. Giờ tôi đã hiểu ra rằng những chuyện tôi cho là hoang đường trong Kinh Thánh như Chúa gọi người chết sống lại… không hoang đường nữa, vì chẳng phải Chúa vừa cho tôi chết và vừa gọi tôi sống dậy đó sao? Và những chuyện Chúa cho người mù sáng mắt, người què đi được… cũng chẳng có gì lạ hay hoang đường, vì Chúa chính là Đấng Tạo Hóa, Ngài tạo ra loài người như thể loài người tạo ra con robot, và sửa lại khi nó bị gãy, bị bể mà thôi.

Cảm tạ Chúa đã cho tôi nhận biết Ngài một cách không thể rõ ràng hơn, nhưng không cất đi bất cứ thứ quý giá nào tôi đang có. Giờ đây ngoài người cha ruột đã quá cố, tôi đã có thêm một người cha nữa: Cha Thiên Thượng, Đấng Toàn Năng, Đấng Yêu Thương.


Anh Nguyễn Huy Hoàng và gia đình mình tại San Jose, ảnh chụp năm 2017 (Ảnh do nhân vật cung cấp)


Phước cho người nào chẳng thấy mà tin


Các bạn nào đang tìm hiểu Chúa nhưng vẫn chưa đủ đức tin, nếu nhờ bài làm chứng này của tôi mà mạnh dạn tin nhận Chúa thì tôi xin chúc mừng bạn! Bạn thật phước hạnh như lời Chúa dạy: “Vì ngươi đã thấy ta, nên ngươi tin. Phước cho những kẻ chẳng từng thấy mà đã tin vậy!” (John/Giăng 20:29)

Còn những bạn đang tìm hiểu và không tin lời chứng này, tôi cũng xin chúc mừng bạn, bạn là người giống con người cũ của tôi: “Thấy mới tin”. Những người như bạn không dễ tin, nhưng khi thấy rồi, kinh nghiệm Chúa được rồi bạn sẽ tin một cách mạnh mẽ, chắc chắn. Các bạn chính là những người Chúa cần: “Ta biết công việc của ngươi; ngươi không lạnh cũng không nóng. Ước gì ngươi lạnh hoặc nóng thì hay! Vậy, vì ngươi hâm hẩm, không nóng cũng không lạnh, nên ta sẽ nhả ngươi ra khỏi miệng ta” (Revelation/Khải Huyền 3:15-16).

Với những bạn vẫn chưa tin Chúa, không muốn tìm hiểu về Chúa và cũng không tin lời làm chứng này, tôi cũng xin được cầu nguyện cho bạn. Mong bạn cứ tiếp tục tìm hiểu về Chúa với tấm lòng rộng mở; chắc chắn một ngày nào đó Chúa sẽ bày tỏ cho bạn thấy Ngài là ai, giống như Ngài đã bày tỏ cho tôi vậy. Kinh Thánh dạy rằng Chúa chỉ xuất hiện với những ai tìm kiếm và sẵn sàng mở lòng đón nhận Ngài: “Nầy, ta đứng ngoài cửa mà gõ; nếu ai nghe tiếng ta mà mở cửa cho, thì ta sẽ vào cùng người ấy, ăn bữa tối với người, và người với ta” (Revelation/Khải Huyền 3:20)

Sau cùng, tôi tha thiết xin bạn hãy mở lòng mình ra với Chúa, để một ngày nào đó bạn sẽ có cơ hội được Chúa bày tỏ cho biết Ngài là có thật, luôn hiện hữu và đầy quyền năng. Chuyện xảy ra với tôi có thể làm bạn nghi ngờ rằng tôi bị ảo giác, nằm mơ hay tưởng tượng. Điều đó hoàn toàn có thể hiểu được, bạn hoàn toàn có quyền không tin tôi. Nhưng trước khi kết thúc bài viết này, tôi chỉ xin để lại cho bạn câu hỏi: Nếu lời làm chứng này của tôi là thật và Đức Chúa Trời là có thật, thì linh hồn bạn sẽ về đâu khi bạn qua đời mà chưa biết đến Chúa?

Nguyễn Huy Hoàng

(Kỹ sư phần mềm tại Amazon Lab 126, San Jose, CA, USA)

Lời Chứng của Nam Quốc Trung về Quyền năng Biến đổi của Chúa Cứu thế



Nam Quốc Trung làm chứng tại
Chương Trình giao lưu Hội Thánh Tin Lành Hà Nội & CATPHN

Quí vị có thể xem thêm
Tin Truyền Hình Việt nam
Trên 300 người Bỏ Ma Túy nhờ quyền năng Chúa Cứu thế Giê-xu.

Lời chứng của Lê Minh Phương & Nam Quốc Trung

Chú thích: Những đường dẫn nầy không nhằm mục đích nào khác hơn
nói lên sự kiện về quyền năng biến đổi của Chúa Cứu thế Giê xu
trên những con người đang ở trong quyền lực của sự tối tăm
như tình trạng của toàn thể nhân loại sau khi sa ngã.
Chúa Cứu thế Giê xu đã giáng sinh làm người và chết thay cho nhân loại
trên thập tự giá để giải cứu con người ra khỏi quyền lực của tội lỗi
và đem họ vào trong nước sáng láng của Ngài
Ngài đã sống lại và đang sống để ban cho người tin nhận Ngài
sự sống mới và sự sống đời đời với Ngài trong cõi vĩnh hằng
Mời bạn đến với Chúa Giê xu để nhận sự sống mới
qua quyền năng biến đổi của Ngài.

QUYỀN NĂNG BIẾN CẢI CỦA TIN LÀNH

 
Chương trình Ánh Sáng Một Con Đường trên thời sự VTV4

Need help?

Please email to tech support